Củng cố, cải tạo và khai thác tiềm năng hiện có của mạng lưới, xây dựng những công trình thông tin hiện đại, tăng cường năng lực và nâng cao chất lượng thông tin (1981-1985)
Kết thúc kế hoạch 5 năm lần thứ 2 (1976-1980), ngành Bưu điện đã
đạt được một số kết quả nhất định, mạng lưới thông tin được củng cố, cải tạo, mở
rộng và hiện đại hóa một bước. Tổ chức quản lý kinh tế kỹ thuật nghiệp vụ được
kiện toàn và thống nhất trong cả nước. Đội ngũ cán bộ được sắp xếp lại, tiếp tục
được bồi dưỡng và nâng cao trình độ. Tuy nhiên còn nhiều tồn tại về năng lực và
chất lượng thông tin. Cả nước còn tồn tại 2 mạng lưới thông tin, một của Bưu điện,
một của quân đội hoạt động song song nhưng quản lý riêng rẽ, chưa có sự kết hợp
chặt chẽ để phục vụ tốt cho những nhu cầu thiết yếu của quốc gia, nhiều ngành
xin tổ chức mạng thông tin riêng gây ra sự đầu tư thiếu tập trung, kém hiệu quả.
Mặt khác mạng lưới thông tin kỹ thuật lạc hậu lại gánh chịu những hậu quả hết sức
nặng nề của chiến tranh lâu dài. 5 năm chúng ta phải tiến hành chiến tranh giữ
nước ngót 3 năm, vết thương cũ chưa hàn gắn xong đã tiếp thêm những tàn phá mới.
Cùng một lúc mạng lưới thông tin phải đáp ứng 3 yêu cầu cơ bản rất cấp bách là
bảo vệ Tổ Quốc, phục vụ nhu cầu xử dụng thông tin của nhân dân và từng bước xây
dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của CNXH. Từ tình hình trên, sau Đại hội Đảng lần
thứ 5, nhiệm vụ của ngành Bưu điện giai đoạn 1981-1985 được xác định rõ là phải
“đẩy mạnh củng cố, cải tạo, nâng cao chất lượng mạng lưới, tranh thủ phát triển
có trọng điểm, phấn đấu tăng năng lực phục vụ thông tin”.
I. Đẩy
mạnh việc củng cố, cải tạo mạng lưới hiện có, tranh thủ phát triển theo hướng
hiện đại hóa, từng bước cân đối đồng bộ tạo ra năng lực phục vụ mới
1. Tiếp
tục củng cố, cải tạo phát triển mạng lưới nâng cao chất lượng thông tin
(1981-1983)
Trên cơ sở dự thảo kế hoạch 5 năm (1981-1985), thực hiện kế hoạch
nâng cao chất lượng thông tin, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, trong tình
hình vật tư, tiền vốn có hạn và gặp nhiều khó khăn khách quan, lãnh đạo Ngành
đã linh hoạt vận dụng cả 3 nguồn vốn: vốn xây dựng mới, sửa chữa lớn, phát triển
sản xuất, để tập trung vào một số công trình quan trọng, trọng điểm, triển khai
hoàn thành nhanh gọn và tranh thủ đưa vào sử dụng sớm.
Về điện chính: Điển hình là công trình cáp đồng trục Hà Nội – Hải
Phòng được xây dựng trên cơ sở hợp tác giữa Việt Nam và Pháp. Đây là công trình
cáp đồng trục hiện đại đầu tiên ở Việt Nam do CBCNV ngành tự thiết kế và thi
công dưới sự giúp đỡ về kỹ thuật của chuyên gia Pháp. Là một công trình thông
tin kỹ thuật mới, đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ am hiểu kỹ thuật và tay nghề
cao, trong khi đó cán bộ kỹ thuật của Ngành còn bất cập. Do đó, việc đào tạo cấp
tốc, vừa học vừa làm để cung cấp cán bộ cho công trình là yêu cầu cần thiết.
Các công trình dưới hạn ngạch cũng được tập trung đẩy mạnh tiến độ nên đã hoàn
thành các tuyến đường dây hữu tuyến, các đài duyên hải cũng được tăng cường thiết
bị đáp ứng thông tin cho vùng biên giới, ven biển. Trên tuyến trục Bắc –Nam đã
tăng thêm một số kênh liên lạc vô tuyến, tuyến viba, mạng gentex, telex được
phát triển. Đài Hoa Sen được hoàn chỉnh nhiều mặt, việc liên lạc giữa ta với
các nước bạn càng được củng cố và mở rộng…
Như vậy, cùng với việc cải tạo củng cố, xây dựng mở rộng mạng lưới,
công tác tổ chức và quản lý kinh tế kỹ thuật nghiệp vụ cũng được lãnh đạo Ngành
quan tâm nhiều.
Về bưu chính-PHBC: tích cực giải quyết các khó khăn về giao
thông vận tải, củng cố cải tạo các tuyến đường thư trục, nội tỉnh cũng như quốc
tế, tổ chức lại sản xuất nhất là ở các trung tâm đầu mối và ngoại dịch. Mạng lưới
bưu cục được điều chỉnh hợp lý sau khi thành lập và củng cố mạng lưới trạm Bưu
điện xã.
Tình hình PHBC gặp những biến động lớn, có thời gian thiếu giấy
nên số lượng báo in giảm nhiều, giá báo tăng, việc giao báo trễ, thất thường, mất
thường xuyên xảy ra, vì vậy việc PHBC cũng cần được quan tâm chỉ đạo để cải thiện
tình hình.
Bước vào thực hiện kế hoạch năm 1982, mọi hoạt động của Ngành từ
Tổng cục đến các đơn vị cơ sở đều tập trung hướng vào mục tiêu “Chất lượng
thông tin và hiệu quả kinh tế”. Thực hiện phương hướng nhiệm vụ trên, ngoài việc
tìm mọi biện pháp duy trì và giữ vững hoạt động của toàn mạng lưới ổn định,
Ngành đã tận dụng các tiềm năng và nguồn vốn sẵn có trong và ngoài Ngành, huy động
tối đa, tập trung có trọng tâm, trọng điểm để mở rộng năng lực mạng lưới, nâng
cao chất lượng phục vụ. Mạng thông tin điện chính đường trục trên cả 3 phương
thức có nhiều tuyến đã được củng cố, hoàn chỉnh, một số tuyến được xây dựng mới.
Cùng với việc củng cố, phát triển mạng thông tin đường trục, mạng thông tin nội
tỉnh cũng được củng cố, tăng cường về chiều dài cũng như về kênh liên lạc. Mạng
nội hạt được mở rộng và từng bước tự động hóa…
Về mạng đường thư: Ngoài việc tận dụng triệt để các phương tiện
giao thông sẵn có, nâng cao năng lực vận chuyển bưu phẩm bưu kiện, báo chí. Mạng
đường thư nội tỉnh, nội huyện sử dụng tổng hợp các phương tiện cơ giới và thô
sơ kết hợp, phát huy được năng lực vận chuyển. Các bưu cục và trạm bưu điện xã
một số nơi đã được tổ chức lại, mở rộng thêm mặt bằng sản xuất, đảm bảo khang
trang sạch sẽ. Mạng lưới thông tin hệ I được củng cố góp phần duy trì và nâng
cao chất lượng thông tin toàn hệ.
Để thực hiện tốt 2 nhiệm vụ chiến lược về xây dựng phát triển
kinh tế và bảo vệ Tổ Quốc, Ngành đã tổ chức thực hiện công tác bảo dưỡng vận
hành dây máy, tổ chức đấu nối, sắp xếp kết hợp giữa thời bình và thời chiến, giữa
kinh tế với quốc phòng. Giữa ngành thông tin Bưu điện và Quốc phòng đã có sự phối
hợp chặt chẽ đảm bảo thông tin liên lạc nhanh chóng, chính xác, đạt kết quả tốt.
Đối với mạng thông tin liên lạc điện báo, điện thoại quốc tế,
Ngành đã tập trung chuyển hướng các đường liên lạc đi các nước. Đường thư quốc
tế đường thủy được mở, nâng cao năng lực vận chuyển.
Thực tiễn hoạt động trong 2 năm (1981-1982) đã giúp Ngành rút ra
được những bài học kinh nghiệm thiết thực quý báu. Bước vào năm 1983 là năm bản
lề, năm “Quốc tế về thông tin liên lạc” đòi hỏi mọi hoạt động của Ngành phải có
sự đổi mới và chuyển biến, tiến bộ rõ rệt. Từ đây, lần đầu tiên trong lịch sử
thông tin liên lạc ở nước ta việc liên lạc bằng điện thoại giữa TW với 40 tỉnh
thành được thực hiện thành công, năng lực thông tin điện không những được phát triển
đáng kể theo chiều rộng mà còn được củng cố một bước quan trọng theo chiều sâu.
Bằng việc kết hợp giữa thông tin vệ tinh với năng lực mạng thông tin điện chính
mới được củng cố và mở rộng, ta có thể mở nghiệp vụ điện thoại với 73 nước, điện
báo với 208 nước thuộc gần 200 khu vực và nước trên thế giới.
Về bưu chính – PHBC: Trong điều kiện nền kinh tế và tình hình xã
hội nước ta còn nhiều mặt yếu kém, việc phấn đấu cho mục tiêu “nhanh chóng, an
toàn” là vấn đề khó khăn, phức tạp. Thấy rõ tình hình đó, lãnh đạo Ngành đã chỉ
đạo các bưu điện địa phương vượt qua khó khăn để chấn chỉnh và mở rộng mạng lưới
đường thư, bưu cục, chấn chỉnh các cơ sở khai thác, tăng cường giáo dục đi đôi
với đề cao kỷ luật trong CBCNV làm công tác bưu chính, các đơn vị địa phương
tích cực vận động phong trào chống chậm, chống mất, nhờ đó về một số mặt đã có
những tiến bộ nhất định. Mạng lưới bưu cục được củng cố, xây dựng, mở rộng mặt
bằng sản xuất dây chuyền sản xuất được sắp xếp lại hợp lý hơn, khang trang sạch
sẽ, thuận lợi cho việc phục vụ nhân dân.
Hưởng ứng năm quốc tế thông tin liên lạc và theo những tiêu chuẩn
của Tổng cục, nhiều địa phương đã xây dựng lại và tổ chức bưu cục kiểu mẫu. Đi
đôi với việc chấn chỉnh lại hệ thống các đường thư trong nước và đi ra nước
ngoài, chúng ta đã chấn chỉnh khâu vận chuyển và khai thác.
Cũng năm 1983, lần đầu tiên Tổng cục Bưu điện được phép của Hội
đồng Bộ trưởng trực tiếp tham gia triển lãm Tem quốc tế tại Băng Cốc và bán tem
chơi trong triển lãm gây ảnh hưởng tốt về chính trị và kết quả tốt về kinh tế.
Ngành cũng bắt đầu thực hiện việc hợp tác với Cu-Ba về sản xuất và kinh doanh
tem chơi.
Tổng kết năm 1983 cũng là 3 năm thực hiện kế hoạch 5 năm
(1981-1985) thực hiện cuộc vận động lớn “chất lượng thông tin, năng suất lao động
và hiệu quả kinh tế” và phong trào thi đua 2 năm (1982-1983), ngành Bưu điện
đánh dấu thêm một bước tiến bộ mới đáng kể trong việc nâng cao năng lực phục vụ
thông tin và phát triển kinh doanh XHCN.
2. Đẩy
mạnh phát triển mạng lưới, xây dựng một số công trình thông tin hiện đại
(1984-1985)
Đây là 2 năm có vị trí hết sức quan trọng của kế hoạch 5 năm
(1981-1985), vì vậy mạng lưới thông tin Bưu điện không chỉ phát triển theo chiều
rộng mà cần được củng cố theo chiều sâu. Do mạng thông tin điện còn mất cân đối
ở nhiều khâu, tiềm năng chưa khai thác hết, chất lượng thông tin nhất là bưu
chính còn những thiếu sót lớn đòi hỏi Ngành phải không ngừng củng cố, xây dựng
cơ sở vật chất và hệ thống thông tin liên lạc, nâng cao chất lượng tạo tiền đề
cho những bước phát triển mới.
Khó khăn lớn khi bước vào thực hiện kế hoạch là những vướng mắc
về cơ chế quản lý và tình trạng mất cân đối về vật tư và tiền vốn. Để thi công
dứt điểm và đưa vào sử dụng một số công trình trọng điểm, Ngành đã vận dụng
linh hoạt chế độ chính sách, huy động sức mạnh tổng hợp, triển khai sớm các
khâu chuẩn bị đầu tư, xây dựng công trình. Để chủ động đưa vào kế hoạch đầu tư,
các luận chứng KHKT đều được hoàn thành trước thời hạn và được phê chuẩn. Do đó
các công trình trọng điểm đều đạt được mục tiêu đề ra. Trong đó có đài thông
tin vệ tinh mặt đất Hoa Sen II do Liên Xô giúp ta xây dựng tại TP Hồ Chí Minh,
đến giữa năm 1985 được đưa vào sử dụng. Nhờ đó khả năng thông tin, phát thanh
truyền hình ở phía Nam được tăng cường đáng kể. Thông tin 2 miền Nam – Bắc được
mở rộng một bước quan trọng. Thông tin quốc phòng, chống lụt bão thêm vững chắc,
nhất là quan hệ thông tin quốc tế được phát triển lên một bước.
Đối với mạng bưu chính-PHBC, Ngành đã tiến hành củng cố một số
tuyến đường trục nhằm rút ngắn hành trình, nâng cao năng lực và chất lượng vận
chuyển, tận dụng phương tiện vận chuyển xã hội. Trong thông tin bưu chính-PHBC
nổi bật nhất là cuộc vận động tập trung chống mất BPBK ở các trọng điểm chủ yếu
nơi có nhiều BPBK ngoại dịch. Ban chỉ đạo chống chậm, chống mất đã có sự chỉ đạo
chặt chẽ, có nhiều biện pháp tích cực về tổ chức và kỹ thuật, coi trọng thực hiện
đồng bộ các biện pháp hành chính, kinh tế cũng như giáo dục nên hiện tượng mất
mát, tráo đổi hàng của dân gửi qua bưu điện giảm nhiều.
3. Củng
cố, xây dựng hệ thống thông tin liên lạc, nâng cao trình độ, sẵn sàng phục vụ
chiến đấu và sản xuất ở biên giới
Cùng với quá trình hoàn thiện hệ thống thông tin liên lạc bảo đảm
cho việc phục vụ sản xuất, xây dựng đất nước, trong 2 năm 1984-1985 Ngành còn
có nhiệm vụ củng cố và phát triển mạng lưới thông tin liên lạc tại các tỉnh
biên giới phía Bắc để phục vụ chiến đấu và sản xuất. Phối hợp với thông tin
quân đội, ngành Bưu điện đã tổ chức tốt mạng lưới thông tin liên lạc ở các tỉnh
biên giới phía Bắc khi có chiến sự nổ ra.
Do được chuẩn bị chu đáo, chất lượng mạng thông tin tại các tỉnh
biên giới được ổn định và nâng lên đảm bảo phục vụ tốt cho chỉ huy sẵn sàng chiến
đấu, sản xuất. Mặc dù cuộc chiến tranh bắn phá và lấn chiếm của địch trên toàn
tuyến biên giới kéo dài mãi tới năm 1987 nhưng mạng lưới thông tin liên lạc vẫn
được giữ vững, ngày càng được củng cố và phát triển.
II.
Phát triển SX công nghiệp, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học và áp dụng tiến bộ
kỹ thuật, tiếp tục đào tạo xây dựng đội ngũ cán bộ, mở rộng quan hệ hợp tác quốc
tế để xây dựng và nâng cao chất lượng thông tin
1. Phát
triển SX công nghiệp
Sau kế hoạch 5 năm lần thứ 2 (1976-1980), công nghiệp thông tin
vẫn còn non yếu chỉ đáp ứng được một phần yêu cầu và phát triển mạng lưới. Tuyệt
đại đa số thiết bị, phụ tùng, vật liệu phải nhập khẩu, vì vậy bước vào kế hoạch
5 năm lần thứ 3 (1981-1985), việc phát triển công nghiệp thông tin đã trở thành
yêu cầu cấp bách. Trong tình hình đó, các nhà máy, xí nghiệp Bưu điện cố gắng tận
dụng nguyên liệu phế phẩm, khắc phục khó khăn để duy trì, phát triển sản xuất.
Tuy nhiên so với yêu cầu của mạng lưới thông tin, sản xuất công nghiệp chưa tạo
được bước tiến bộ đáng kể, tuy giá trị sản lượng có vượt, năng suất lao động có
tăng, song chất lượng, số lượng các mặt hàng trực tiếp phục vụ mạng lưới ngày
càng giảm sút. Những khó khăn yếu kém của sản xuất công nghiệp ngành Bưu điện
cũng là nằm trong tình hình khó khăn, sản xuất công nghiệp chung của cả nước. Để
duy trì và phát triển, năm 1984, Bộ chính trị ra Nghị quyết về trao quyền tự chủ
tài chính và tự chủ trong sản xuất kinh doanh cho các xí nghiệp quốc doanh nhằm
từng bước phát huy tính năng động sáng tạo và nâng cao trách nhiệm của cán bộ
quản lý các ngành trong đó có ngành Bưu điện.
Theo đó, Tổng cục đề ra chương trình hành động giải quyết cấp
bách về sắp xếp lại tổ chức sản xuất kinh doanh về công nghiệp thông tin. Năm 1985,
các xí nghiệp, nhà máy của Ngành đã xác định rõ hướng đi và bước đầu thực hiện
việc tổ chức sắp xếp lại sản xuất theo hướng chuyên môn hóa, phục vụ mạng lưới
và sản xuất của Ngành. Trong chỉ đạo sản xuất, hầu hết các cơ sở đã phát huy được
tính chủ động, có nhiều biện pháp sáng tạo, hạn chế được khó khăn, phấn đấu đạt
và vượt kế hoạch được giao.
Nhìn chung sau 5 năm thực hiện kế hoạch, sản xuất công nghiệp
ngành Bưu điện tuy có tiến bộ nhưng cơ sở vật chất còn rất yếu, mặt hàng còn
nghèo nàn, chưa vươn lên kịp yêu cầu. Một số mặt hàng tuy có tiến bộ nhưng vẫn
cần tiếp tục phấn đấu nâng cao chất lượng hơn nữa. Một vài cơ sở còn coi nhẹ
các mặt hàng sản xuất chính chạy theo sản phẩm liên kết kinh tế nhiều hơn. Bộ
máy chỉ huy sản xuất còn cồng kềnh, biên chế còn lớn, năng suất lao động chưa
cao, có nơi còn xảy ra vi phạm kỷ luật hành chính.
2. Đẩy
mạnh nghiên cứu khoa học và áp dụng tiến bộ kỹ thuật
Cùng với sự phát triển của Ngành, công tác nghiên cứu KH và áp dụng
tiến bộ kỹ thuật được đẩy mạnh theo hướng:
- KHKT gắn liền với nhiệm vụ sản xuất
và chính trị của Ngành
- Gắn kết chặt chẽ giữa kế hoạch
khoa học KT với KH kinh tế theo hướng tập trung, dứt điểm, tránh dàn đều.
- Do xuất phát điểm ban đầu ta thấp
so với thế giới, vốn đầu tư có hạn, do đó con đường đi lên của cách mạng KHKT
phải có bước nhảy vọt ở các khâu sản xuất quan trọng thông qua con đường hợp
tác quốc tế kết hợp với đổi mới kỹ thuật trong nước.
- Phát
huy 3 thế mạnh của Ngành: Lực lượng cán bộ KHKT, công nhân lành nghề; Cơ
sở vật chất tiềm tàng và khả năng quan hệ quốc tế trong đó thế mạnh về lực lượng
cán bộ được coi trọng nhất.
Bám sát mục tiêu trên, các đề tài nghiên cứu và áp dụng KHKT được
xây dựng tương đối phù hợp yêu cầu góp phần tích cực vào công tác lãnh đạo và
quản lý của Ngành.
Tuy nhiên, công tác nghiên cứu KHKT tại các cơ sở địa phương còn
yếu. Một số đề tài định ra còn phân tán, hoặc kéo dài thời gian thực hiện.
Phương hướng nghiên cứu bước đầu có chuyển biến nhưng phương pháp chưa đổi mới,
chưa bám cơ sở. Trường Đại học kỹ thuật Thông tin Liên lạc là nơi tập trung nhiều
cán bộ KHKT có trình độ cao nhưng chưa thực sự có nhiều cống hiến
vì chưa có kế hoạch, biện pháp tổ chức thích hợp, động viên tận dụng tiềm năng
đội ngũ cán bộ được tốt.
Năm 1982, công tác nghiên cứu KHKT đã hướng vào thực hiện các
nhiệm vụ trọng tâm sát với thực tế yêu cầu và thu hút được đông đảo cán bộ KHKT
trong và ngoài Ngành tham gia và đã thực hiện được nhiều đề tài cấp Nhà nước về
các chương trình thông tin điện, bưu chính của địa phương và cả nước.
Năm 1983, hoạt động nghiên cứu KHKT ngày càng gắn chặt với sản
xuất và hướng vào yêu cầu của mạng lưới thông tin, một số đề tài đã được ứng dụng
trong các công trình thông tin của Ngành mang lại hiệu quả rõ rệt.
Về thông tin bưu chính: Tổ chức lại dây chuyền sản xuất ngoại dịch
và các công cụ cải tiến được đưa vào sử dụng ở một số trung tâm bưu chính-PHBC.
Song do nhận thức, đầu tư đội ngũ cán bộ và tổ chức thực hiện các đề tài tiến bộ
kỹ thuật ở các cơ sở còn yếu, các cơ quan chức năng tổ chức không ổn định dẫn đến
các hoạt động KHKT trong bưu chính chưa nhiều, một số kết quả nghiên cứu như định
mức trang bị cho các bưu cục trung tâm, máy xóa tem… triển khai vào thực tế còn
chậm.
Nhìn chung trong 5 năm (1981-1985), hoạt động KHKT của Ngành có
nhiều tiến bộ, chuyển biến tốt. Chế độ kế hoạch hóa KHKT được thực hiện, nhiều
cơ chế và quản lý KHKT được xây dựng và ban hành có tác dụng nâng cao hiệu quả
của công tác KHKT, thúc đẩy quá trình gắn nghiên cứu khoa học với sản xuất, đưa
nhanh kết quả nghiên cứu vào sản xuất. Đồng thời để xây dựng cơ sở vật chất cho
công tác KHKT, việc tranh thủ sự hợp tác quốc tế về KHKT đã được đẩy mạnh từ hợp
tác KHKT chuyển sang hợp tác kinh tế.
3. Tiếp
tục đào tạo xây dựng đội ngũ cán bộ
Ngay từ năm 1981, lãnh đạo Ngành coi nhiệm vụ “Tiếp tục đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ công nhân lành nghề, cán bộ KHKT và cán bộ quản lý kinh tế,
cân đối và đồng bộ, hợp với yêu cầu cách mạng trong chặng đường hiện nay và sắp
tới” là công tác rất quan trọng. Mạng lưới đào tạo mở rộng hơn kết hợp nhiều
hình thức: chính quy, tập trung, tại chức, trong và ngoài nước, đào tạo dài hạn
và ngắn hạn. Nhờ đó đáp ứng được yêu cầu của Bưu điện các cấp về lực lượng cán
bộ công nhân.
Cùng với việc đào tạo tại các trường, Ngành còn cử cán bộ lãnh đạo
đi bồi dưỡng kiến thức quản lý kinh tế và chính trị do TW mở và ở Liên Xô
nhằm bổ sung đội ngũ lãnh đạo cho các địa phương.
Tuy nhiên, công tác đào tạo giáo dục, xây dựng đội ngũ không phải
không còn những hạn chế cần được xem xét, đánh giá một cách nghiêm túc và khắc
phục trong giai đoạn tiếp theo.
4. Mở
rộng và tăng cường hợp tác quốc tế
Trong việc thực hiện kế hoạch 5 năm (1981-1985), việc đẩy mạnh
các hoạt động quốc tế và mở rộng quan hệ đối ngoại được Đảng và Nhà nước coi là
một nhiệm vụ quan trọng để đẩy nhanh sự nghiệp xây dựng XHCN. Đối với ngành Bưu
điện, hợp tác quốc tế được coi là một trong 3 kế hoạch chủ yếu, vì vậy Ngành có
nhiều cố gắng tranh thủ hợp tác nhiều mặt với các nước XHCN và các tổ chức quốc
tế và mang lại hiệu quả tốt.
Nhìn chung, quan hệ hợp tác quốc tế trong 5 năm của Ngành đã
phát triển một bước đáng kể. Tuy nhiên, khả năng viện trợ không hoàn lại ngày
càng hạn chế, đòi hỏi công tác hợp tác quốc tế phải đi vào chiều sâu, phấn đấu
vươn lên để có thể tiến hành hợp tác trên nguyên tắc hai bên đều có lợi.
III. Đổi
mới và tăng cường quản lý kinh tế, phát động phong trào cách mạng của quần
chúng
Sau kế hoạch 5 năm lần thứ 2 (1976-1980), công tác tổ chức cơ chế
quản lý ngành Bưu điện đã có những chuyển biến quan trọng. Hoạt động của toàn
Ngành bước đầu theo phương thức kinh doanh XHCN về chế độ hạch toán kinh tế
thông qua kế hoạch hóa. Tổng cục Bưu điện được tăng cường thêm về chức năng quản
lý hành chính kinh tế Nhà nước, giải quyết tốt mối quan hệ giữa TW – địa
phương, giữa Ngành – vùng lãnh thổ. Tuy vậy, do duy trì quá lâu cơ chế quản lý
tập trung quan liêu bao cấp đã lỗi thời, quản lý Nhà nước đáng lẽ phải tập
trung vào việc xây dựng pháp luật, cải cách về cơ chế chính sách vĩ mô, thì lại
can thiệp sâu vào quản lý kinh doanh nên làm cho các đơn vị kinh tế nhất là các
xí nghiệp công nghiệp Bưu điện thiếu năng động, sáng tạo, kết quả là sản xuất,
kinh doanh kém hiệu quả, nhiều mặt mất cân đối và phân bố không đều. Vì vậy, vấn
đề tổ chức và quản lý kinh tế kỹ thuật nghiệp vụ là vấn đề từ lâu được lãnh đạo
Ngành quan tâm nhiều.
1. Kiện toàn tổ chức, đổi mới
quản lý kinh tế
Về tổ chức: Năm 1981, công tác tổ chức hướng vào việc hoàn thiện
bộ máy các cấp gồm việc điều chỉnh cơ cấu tổ chức, phân công phân nhiệm hợp lý
hơn. Đi đôi với việc kiện toàn tổ chức, việc bố trí cán bộ, trước hết là cán bộ
chủ chốt kiện toàn các cấp lãnh đạo ở địa phương và cơ sở, nhất là những nơi do
trình độ quản lý yếu, hoặc mất đoàn kết đã ảnh hưởng đến sản xuất công tác, đến
phong trào quần chúng được Tổng cục quan tâm đặc biệt.
Ngoài việc chấn chỉnh toàn bộ máy sẵn có, đối với các chủ trương
quan trọng, những công tác lớn, những đề tài lớn, phức tạp, Tổng cục thành lập
các Ban chỉ huy, Ban chỉ đạo, tổ công tác, Ban chủ nhiệm đề tài… chọn lựa những
cán bộ thành thạo am hiểu vấn đề. Qua việc cải tiến phân cấp thực hiện chế độ
chính sách cán bộ, tổ chức quản lý đã phát huy được tác dụng tốt, CBCNV phấn khởi,
phát huy, chủ động trong trách nhiệm của mình, của đơn vị đầy đủ hơn.
Về tổ chức sản xuất: Tổ chức lại mạng lưới thông tin để từng bước
hình thành mạng lưới thông tin quốc gia thống nhất liên kết được hệ thống riêng
của các ngành với mạng quốc tế…
Về cơ chế quản lý: Xóa bỏ cơ chế quản lý hành chính bao cấp, khắc
phục tình trạng trì trệ, bảo thủ vô trách nhiệm, vô kỷ luật, phát huy động lực
làm chủ tập thể nâng cao tính năng động, tinh thần sáng tạo.
Về tổ chức quản lý: Kiện toàn tổ chức quản lý của Ngành, vừa làm
tốt chức năng quản lý hành chính kinh tế Nhà nước, vừa quản lý sản xuất kinh
doanh theo đúng vị trí tính chất của Ngành là cơ quan thông tin liên lạc của Đảng
và chính quyền các cấp. Cùng với việc kiện toàn tổ chức, trong công tác quy hoạch
cán bộ giai đoạn 1981-1985 đã hoàn thành xây dựng quy hoạch cán bộ ở các tỉnh,
thành và các đơn vị trực thuộc.
Để tăng cường vai trò quản lý hành chính kinh tế Nhà nước của Tổng
cục Bưu điện, Hội đồng Bộ trưởng ban hành “Điều lệ PHBC”, theo đó quy định công
tác PHBC do Nhà nước quản lý theo phương thức kinh doanh XHCN và chế độ hạch
toán kinh tế.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để xây dựng hệ thống tổ chức và cơ cấu
tổ chức của Ngành hợp lý hơn, nhưng đến hết năm 1982 tổ chức của Tổng cục vẫn
chưa được hoàn thiện, năm 1983, Ngành đi vào hoàn thiện thêm một bước tổ chức của
mình từ Tổng cục đến các Bưu điện tỉnh thành.
Về hệ thống tổ chức: Ngày 08/4/1983, Tổng cục ra quyết định
số 299/QĐ thành lập Trung tâm truyền báo
Về cơ cấu tổ chức: Kiện toàn bộ máy chức năng của Tổng cục. Theo
Nghị định 150/HĐBT, ngày 24/4/1985, Tổng cục ra thông báo số 53TB-VP quyết định
đổi tên:
- Vụ Tổ chức cán bộ thay cho Vụ Cán bộ và đào tạo
- Vụ Tài chính kế hoạch và thống kê thay cho Vụ Kế toán thống kê
- Vụ KHKT thay cho Vụ Kỹ thuật
Với các Bưu điện tỉnh thành, năm 1983, Tổng cục nghiên cứu sửa đổi
điều lệ tổ chức và hoạt động cho phù hợp với yêu cầu sản xuất và cơ sở. Từ 1984
tổ chức sản xuất và quản lý 38 Bưu điện tỉnh thành, đặc khu được cải tiến theo
một mô hình thống nhất, tăng cường công tác nghiệp vụ kỹ thuật, gắn chặt hơn giữa
kỹ thuật với khai thác.
Đối với 2 TP lớn là Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, chủ trương thành lập
Liên hiệp các xí nghiệp Bưu chính-PHBC và Liên hiệp các Xí nghiệp Viễn thông nhằm
khắc phục một số tồn tại bất hợp lý về tổ chức sản xuất, tăng cường tập trung
thống nhất trong chỉ đạo điều hành sản xuất, tăng cường công tác quản lý hành
chính kinh tế của Tổng cục.
Tổ chức sản xuất công nghiệp cũng được đổi mới một bước. Thành lập
Xí nghiệp in tem và Xí nghiệp In Bưu điện là những quyết định đúng đắn và có hiệu
quả lớn. Đồng thời thay đổi nhiệm vụ của 2 xí nghiệp khoa học sản xuất tạo hiệu
quả lớn trong việc phân công và tổ chức lại sản xuất công nghiệp.
Năm 1984, hàng ngũ lãnh đạo Tổng cục có sự thay đổi, đ/c Phạm
Niên nghỉ hưu, đ/c Đặng Văn Thân Giám đốc Trung tâm viễn thông III được Chính
phủ bổ nhiệm làm Phó tổng cục trưởng, Quyền Tổng cục trưởng. Các đ/c Lê Đức Niệm
Giám đốc Bưu điện Phú Khánh, Đoàn Ngọc Chung Viện phó Viện Kinh tế quy hoạch
làm Phó tổng cục trưởng. Tháng 9/1985, đ/c Đặng Văn Thân được Chủ tịch Hội đồng
Bộ trưởng bổ nhiệm làm Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện.
2. Tăng cường và đổi mới quản
lý kinh tế
Hết năm 1980, nền kinh tế nước ta “gồm nhiều thành phần, nhiều
trình độ kỹ thuật, nhiều quy mô hoạt động và loại hình sản xuất kinh doanh và
đang có sự mất cân đối gay gắt. Thích ứng với nền kinh tế cũng phải có một cơ
chế quản lý năng động có khả năng xóa bỏ tập trung quan liêu bao cấp”. Quán triệt
mọi chỉ thị nghị quyết của Đảng và Nhà nước vận dụng linh hoạt vào thực hiện
nhiệm vụ quản lý của Ngành, Tổng cục Bưu điện chấn chỉnh công tác quản lý kinh
tế đảm bảo các yêu cầu: củng cố cải tạo mạng lưới hiện đại hóa một bước, khuyến
khích lợi ích vật chất bằng các chính sách đòn bẩy kinh tế và một số chủ trương
quan trọng của Ngành.
Về kế hoạch hóa: Công tác kế hoạch đã có sự cải tiến đổi mới về
nội dung phương pháp đảm bảo yêu cầu dân chủ hóa, tính toán khoa học hơn, mức
chỉ tiêu kế hoạch tích cực hơn và phát huy được tiềm năng. Việc giao kế hoạch
được chủ động linh hoạt, kịp thời hơn. Trong chỉ đạo thực hiện có nhiều tiến bộ,
sự chỉ đạo sát sao hơn. Vai trò của giám đốc được phát huy rõ nét. Có nhiều biện
pháp thúc đẩy được tinh thần phấn đấu của CBCNV.
Về lao động tiền lương: Ngành đã chú ý cải tiến sản xuất, tổ chức
lại lao động, đi sâu vào các trung tâm, huyện thị, tạo được mối liên hoàn ăn khớp
có tác dụng nâng cao năng suất lao động, đảm bảo chất lượng. Một số tỉnh đã
nghiên cứu hình thức trả “Lương khoán khối lượng và nhiệm vụ có thưởng cho tập
thể” phù hợp với tính chất và đặc thù sản xuất của Ngành và được các ngành liên
quan đồng tình.
Về quản lý tài chính: Năm 1981, tuy có biến động về tiền lương
và giá cả, nhưng công tác quản lý tài chính của Ngành đã bám sát phục vụ được
nhiều và tốt hơn cho nhiệm vụ sản xuất, có nhiều biện pháp hướng dẫn giúp đỡ cơ
sở, đơn vị tăng cường quản lý chặt chẽ hơn. Do đó đảm bảo tốt nhiệm vụ thu nộp
cho ngân sách Nhà nước.
Rút kinh nghiệm những mặt tốt và chưa tốt, năm 1982 trong công
tác kế hoạch hóa, lao động tiền lương Ngành đã áp dụng hàng loạt chế độ chính
sách mới của Đảng và Nhà nước phù hợp với thực tế sản xuất, cùng với việc tăng
cường công tác quản lý đã tạo được những chuyển biến tiến bộ trong sản xuất. Kỷ
luật lao động nghiêm minh hơn, CBCNV quan tâm tới chất lượng và kết quả công việc
mình làm, năng suất lao động tăng lên…
Nhìn chung trong giai đoạn 1981-1985 công tác quản lý của Tổng cục
đã có chuyển biến về nhận thức tương đối sâu sắc theo hướng chỉ đạo của các Nghị
quyết của Đảng, hiệu quả kinh tế trên từng mặt cũng rõ hơn, hoạt động sản xuất
đã đi dần từ tình trạng bù lỗ sang sản xuất kinh doanh khá hơn và liên tục hoàn
thành nhiệm vụ kế hoạch được giao. Song trong chỉ đạo quản lý cũng còn không ít
thiếu sót tồn tại như: Cơ chế quan liêu bao cấp chưa hoàn toàn xóa bỏ; Cơ chế
quản lý nhà nước về hành chính kinh tế chưa được quy định đầy đủ và rõ ràng giữa
các cấp; Nhiều chế độ chính sách, định mức đã lỗi thời chưa thay đổi; Chế độ quản
lý mới có tính chất tạm thời trong bước quá độ nên còn chắp vá, thiếu đồng bộ;
Trình độ kế hoạch hóa, hạch toán kinh tế thấp nên công tác kế hoạch chưa bảo đảm
những cân đối tối thiểu; Công tác hạch toán kinh tế mới chỉ ở mức độ hạch toán
kế toán, chưa phản ánh đúng thực tế sản xuất kinh doanh; Công tác thống kê số
liệu nhiều khâu không chính xác dẫn đến hình thức hiệu quả thấp; Công tác giá
và cước gặp nhiều trở ngại khách quan và chủ quan do chưa thích ứng được với sự
biến động của mặt bằng giá dẫn tới Ngành còn tiếp tục chịu bao cấp lớn qua giá
cả và cước là trở ngại rất lớn trong việc thực hiện quyền chủ động trong sản xuất
kinh doanh; Công tác phân phối còn bất hợp lý, chế độ lương thưởng có những chỗ
chưa quán triệt triệt đầy đủ nguyên tắc phân phối theo lao động… Những tồn tại
đó cũng phản ánh trình độ quản lý kinh tế của Ngành đồng thời đó cũng là những
vấn đề phải tập trung giải quyết trong giai đoạn mới để từng bước tiến tới xóa
bỏ hoàn toàn tập trung quan liêu, bao cấp, chuyển mạnh sang hạch toán kinh
doanh XHCN.
3. Đẩy mạnh phong trào cách
mạng của quần chúng
Để xóa bỏ trì trệ, tạo không khí làm việc khẩn trương, phát huy
tính chủ động sáng tạo, chuyên môn và công đoàn các cấp thường xuyên quan tâm đến
việc chuẩn bị về mặt tư tưởng cho CBCNV, đưa quần chúng vào hành động cách mạng.
Phát huy tinh thần tự lực tự cường, trí sáng tạo cách mạng, để mở
rộng năng lực phục vụ, đảm bảo nâng cao năng suất lao động, hiệu quả kinh tế, bảo
đảm lợi ích người lao động, Công đoàn Ngành đã phát động các phong trào thi đua
sôi nổi, đều khắp. Các phong trào thi đua đã lôi cuốn được đông đảo CBCNV toàn
Ngành vào sản xuất trên các mặt trận thông tin Bưu điện, xây dựng cơ bản, sản
xuất công nghiệp, đào tạo cán bộ cũng như nghiên cứu khoa học… , khắc phục được
những mặt yếu, tạo được nhiều nhân tố mới để hoàn chỉnh dần điển hình thành các
khuôn mẫu cho các nơi khác học tập.